Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

13 phương pháp chuẩn làm con thông minh

Thông thường ở trẻ sơ sinh, khi các bé đạt được một mốc phát triển sớm hơn so với dự đoán thông thường của các chuyên gia như: biết ‘theo’ trước 2 tháng, biết quay đầu khi gọi trước 4 tháng, phát triển các kỹ năng cầm trước 5 tháng, biết bập bẹ nói trước 8 tháng.. thì được các nhà khoa học xác định là những trẻ thông minh. Nó cho thấy khả năng nhận thức tốt, tiếp thu nhanh và sự phát triển vượt trội của não bộ.

Một số trẻ đạt được các mốc đó là do khi sinh ra đã tự nhiên có não bộ phát triển hơn người. Tuy nhiên, đã phần những đứa trẻ được như vậy bởi bố mẹ chúng đã có phương pháp giáo dục sớm tích cực và kiên nhẫn.

Trẻ nhỏ có thể mới sinh ra chưa được thừa hưởng gen thông minh di truyền từ bố mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ nào cũng muốn con nếu không ngay bây giờ thì sau này cũng phải thông minh học giỏi. Vậy làm cách nào để bé được phát triễn não bộ sớm nhất có thể? Mẹ nên dành thời gian để sử dụng những phương pháp sau:



1. Nói ra tất cả những gì mẹ thấy và làm với bé.

Khi ở nhà, mẹ có thể vừa thay bỉm, vừa quấy bột cho con và vừa mô tả cho bé mình đang làm gì. Lúc ra đường, mẹ có thể chỉ cho bé cái cây, con chim, đếm các xe hơi trên đường. Có thể ban đầu, mẹ sẽ thấy việc mình đang làm khá vô ích vì trẻ không có phản ứng gì. Tuy nhiên bé thực sự đang tiếp thu và học dần qua những lời mẹ nói. Khả năng nhận thức của bé với môi trường xung quanh và lời nói của mẹ sẽ được não bộ ghi lại trong suốt quá trình và bé chắc chắn sẽ tiến bộ vượt bậc trước khi mẹ kịp nhận ra.

2. Đọc sách cho bé ngay từ ngày đầu.

Mọi người thường cười khi thấy một bà mẹ đọc sách cho con ngay từ tháng thứ 6, thứ 7? Vậy là mọi người sai. Ngay cả khi trẻ chưa biết gì, chúng cũng đã biết được phần còn lại của cuốn sách thì như thế nào. Bằng chứng là trẻ luôn lật lật các trang sách về đến trang cuối cùng. Chúng cũng hiểu được nhiều điều từ nội dung của những cuốn sách dựa trên những gì mẹ đọc và giải thích cho chúng nghe hàng ngày. Trẻ nhỏ vài tháng tuổi cũng đã có cuốn sách yêu thích của mình. Trong một ngăn tủ đầy sách, chúng luôn có xu hướng chỉ lôi ra và muốn mẹ đọc cho một quyển thích nhất.

3. Sử dụng các tấm thẻ học.

Mẹ có thể tự làm ra chúng. Chọn những mảnh bìa cứng, cắt vuông vức tầm một quân bài. Vẽ một mặt là chữ cái hoặc số, mặt còn lại là hình ảnh. Cho con chơi với những tấm thẻ này hàng ngày thực sự có tác dụng ghi nhớ và kích thích não trẻ.

4. Luôn để con thấy những việc mẹ làm, và làm thật chậm rãi.

Khi mẹ đánh răng, thay đồ, dọn dẹp nhà cửa…hãy để trẻ quan sát và nếu có thể, nên cho bé thử làm cùng. Mặc dù như vậy sẽ khiến mẹ  bị chậm đi rất nhiều và tốn kha khá thời gian. Tuy nhiên, trẻ sẽ học đơn giản hơn và nhanh hơn.

5. Tránh dùng Tivi, Ipad hay thậm chí cả những chương trình dành cho thiếu nhi, phần mềm dành cho trẻ em…để làm thay mẹ việc trông nom con.

Một số cha mẹ đôi khi quá mệt mỏi, bận rộn và quyết định cho con ‘dính’ lấy cái Tivi để bản thân có thời gian nghỉ ngơi. Tuy nhiên, không nên lạm dụng. Xem nhiều tivi sẽ khiến sẽ chậm nói, thụ động và không muốn chú ý gì tới xung quanh

6. Dạy con cách lựa chọn và cho bé quyền lựa chọn.



Đơn giản là như thế này: Mẹ có thể cầm hai đồ vật với màu sắc khác nhau, nói cho trẻ và hỏi xem con muốn màu nào. Vàng hay xanh. Nếu bé cầm một món đồ. Hãy lấy lại và lặp lại câu hỏi. Lâu dần, trẻ sẽ ghi nhớ được màu sắc cũng như tính chất, tên gọi của món đồ

7. Để cho người khác bế em bé.

Đừng ‘kibo’ con mình. Miễn người đối diện đang sạch sẽ, có thể tin tưởng được và biết bế em bé, hãy cho họ bế con mình một lúc. Trẻ em không có bất kỳ khái niệm nào về việc liệu một người nào đó béo hay gầy, họ xinh hay xấu, vui vẻ hay buồn chán. Cho phép mọi người bế con bạn và bé sẽ tự tìm hiểu về các đặc điểm của từng cá thể khác nhau. Làm quen với đám đông cũng sẽ giúp trẻ  phát triển kỹ năng xã hội.

8. Cho con soi gương.

Cho phép bé được nhìn bản thân mình trong gương và tự khám phá về hình dạng cơ thể mình. Có thể ban đầu, bé sẽ không nhận ra người trong gương chính là mình. Tuy nhiên, sau một thời gian tiếp xúc, não trẻ sẽ có sự ghi nhận và tự động liên kết để hình thành khái niệm vầ chính mình trong gương. Khi nào bé biết người trong gương chính là bé? Hãy bôi một mẩu son lên mũi con rồi cho bé soi gương. Nếu bé giờ tay sờ vào vết son trên mặt mình tức là bé đã biết. Nếu bé giơ tay sờ vào vết son trên gương, mẹ có thể thử lại vào một dịp khác.

9. Dạy con học thêm 1-2 ngôn ngữ mới.

Đừng nghĩ rằng trẻ nói tiếng Việt còn chưa sõi thì sao nói được tiếng Tây tiếng Tàu. Thực tế, theo các nhà khoa học, độ tuổi 3-5 tuổi là thời gian thích hợp để giới thiệu với bé thêm một ngoại ngữ nữa. Học 2,3 thứ tiếng vào thời điểm này không hề khiến trẻ bị nhầm lẫn như nhiều mẹ tưởng.



10. Để trẻ chạm vào mọi thứ.

Tất nhiên, có một số thứ quá nguy hiểm ta không thể cho con chạm vào như lửa hay dao. Vậy nhưng, trừ bỏ những thứ đó, cha mẹ đừng vội hốt hoảng hay ngăn cấm khi thấy con thò tay bốc nắm cát ven đường, cầm nắm cơm, miếng thịt hay sờ tay vào những thứ bụi bặm. Hãy để con được thoải mái cảm nhận kết cấu, hình dạng của các đồ vật trong tự nhiên. Đây là cách bé làm để nhận biết về thế giới xung quanh mình. Chỉ đảm bảo bé đừng cho chúng vào miệng là được.

11. Phải luôn tươi cười.

Kể cả mẹ đã có một ngày tệ hại, tuyệt đối đừng đổ chúng lên đầu trẻ và phải luôn vui vẻ với con. Trẻ sơ sinh cảm nhận rất rõ trạng thái cảm xúc của bố mẹ và từ đó chúng cũng bị ảnh hưởng tâm trang theo. Nếu mẹ đang có  tâm trạng xấu, đau khổ, buồn bã hay giận dữ, em bé cũng sẽ trở tnên đau khổ. Luôn luôn mỉm cười và làm cho em bé cảm thấy hạnh phúc. Trẻ hạnh phúc hơn là trẻ thông minh hơn.

12. Làm các khuôn mặt hài hước, các hành động ngớ ngẩn, nhiều giọng nói khác nhau và biến chuyển nó thật linh hoạt với trẻ.

Trẻ con rất thích điều này. Hầu hết chúng đều tỏ ra cực kì phấn khích và hồ hơi với những trò trêu đùa của mẹ. Tuy nhiên, không chỉ đơn gian là chơi. Những thay đổi ‘nhanh xoành xoạch’ này cũng sẽ giúp trẻ nhận thức được thực tế có hàng trăm trạng thái có thể được thể hiện chỉ qua một gương mặt, một giọng nói.

13. Cố gắng để trẻ bú mẹ càng lâu càng tốt.

Các bác sĩ nói rằng mẹ có thể cai sữa cho con khi bé đạt mốc 1 năm tuổi. Tuy nhiên, hiện có hàng trăm nghiên cứu chứng minh sữa mẹ cung cấp rất nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển tối ưu của trẻ nhỏ. Cho con bú lâu có thể rất rắc rối và mệt mỏi nhưng lại có giá trị lớn cho sự phát triển não bộ của bé.

10 loại thuốc 'đầu độc' thai nhi mẹ bầu cần tránh

Khi mang bầu, chắc chắn mẹ đã được nhắc nhở là không được sử dụng thuốc kháng sinh bừa bãi. Tuy nhiên, khi mẹ mắc bệnh, cảm giác ốm yếu, mệt mỏi khiến mẹ vội tìm đến các loại thuốc mà quên đi sự an toàn của con. Trên thực tế, bà bầu vẫn có thể sử dụng thuốc nhưng đó là sau tuần thứ 8 thai kỳ và được sự cho phép của bác sĩ. Trong những tháng đầu mang thai, khi thai nhi bắt đầu hình thành tim, phổi, não… thì việc uống thuốc bừa bãi có thể khiến thai nhi bị dị tật.

Dưới đây là top 10 loại thuốc mẹ không nên sử dụng trong suốt 9 tháng mang thai:

Thuốc kháng dị ứng

Hầu hết các loại thuốc kháng histamine - loại thuốc được sử dụng phổ biến trong điều trị dị ứng hiện nay - mẹ bầu nên tránh. Nếu mẹ đang bị dị ứng, hãy cố gắng sử dụng các phương pháp dân gian, vệ sinh cơ thể sạch sẽ, ở trong phòng điều hòa… để ngăn ngừa nguy cơ lây lan. Việc sử dụng thuốc kháng histamine có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hình thành và phát triển của thai nhi.

Thuốc thông mũi



Nghẹt mũi là căn bệnh thường thấy trong thai kỳ nhưng các loại thuốc chữa căn bệnh này đều không an toàn cho thai kỳ. Khi mẹ bị bệnh, hãy thử sử dụng nước muối sinh lý để vệ sinh và tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa.

Thuốc kháng nấm

Nấm là vấn đề thường gặp ở những phụ nữ mang thai, nhưng các chuyên gia khuyên bà bầu không nên dùng các loại thuốc kháng nấm khi không có sự chỉ định bác sĩ.

Thuốc giảm đau

Nếu đang bị đau đầu trong thai kỳ, mẹ không nên sử dụng bừa bãi các loại thuốc giảm đau như aspirin, acetaminophen và ibuprofen. Mẹ hãy cố gắng tìm các biện pháp thay thế như bấm huyệt, massage.

Thuốc trị mụn



Hầu hết các loại thuốc trị mụn như Accutane và Retin-A không an toàn cho thai kỳ. Cách tốt nhất là mẹ nên đắp mặt nạ tự nhiên và chăm sóc da bằng mỹ phẩm tự nhiên, sẽ an toàn cho em bé hơn.

Thuốc kháng sinh

Hầu như không có loại kháng sinh nào an toàn cho thai phụ đặc biệt là các dòng Tetracycline và streptomycin. Trong trường hợp không còn cách chữa trị nào khác, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để tìm ra phương pháp điều trị tốt nhất.

Thuốc an thần

Các loại thuốc an thần như Librium và Valium có thành phần được cho là sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, khiến em bé dễ bị dị tật.

Thuốc chống co giật

Một số loại thuốc chống co giật như Diazepam hoặc Clonazepam là cấm kỵ trong thai kỳ. Nếu bạn cần sử dụng loại thuốc này, phải tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa.

Thuốc chống trầm cảm

Thuốc chống trầm cảm có chứa thành phần ức chế MAO như Isocarboazid hoặc phenelzine không hề an toàn cho thai kỳ. Mẹ cũng cần biết rằng, trầm cảm khá phổ biến trong thai kỳ, vì vậy khi có dấu hiệu cần tham khảo ý kiến chuyên gia.

Thảo dược

Thảo dược có nguồn gốc từ thiên nhiên từng được cho là an toàn cho bà bầu thế nhưng có rất nhiều loại có thể gây nguy hiểm cho chị em. Một số loại thảo dược phổ biến mẹ nên tránh trong thai kỳ là: lô hội, quế, nhân sâm, hương thảo…

Mang bầu, đừng bỏ qua 10 thực phẩm này!

Chúng ta đều biết chế độ ăn uống khi mang thai là vô cùng quan trọng để cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho thai nhi phát triển. Để bé yêu được lớn lên tốt nhất trong bụng mẹ, chị em đừng bỏ qua top 10 thực phẩm dưới đây:

1. Quả sung

Một chén nhỏ sung khô (khoảng 8 quả) có thể chứa tới 5 gam chất xơ, con số này còn nhiều hơn đối với sung tươi. Ngoài ra, sung còn là một nguồn tuyệt vời cung cấp canxi không làm từ sữa. Một khẩu phần ăn chứa sung khô có thể cung cấp tới ¼ nhu cầu canxi hàng ngày của bạn. Các nguyên tố kali, phốt pho và magie có trong quả sung cũng rất tốt cho sức khỏe răng miệng. Không những hỗ trợ răng của mẹ bầu, các thành phần này còn có vai trò quan trọng trong việc hình thành phần dưới nướu răng trong miệng em bé.

Sung cũng là một nguồn cung cấp sắt dồi dào cho cơ thể. Thiếu sắt có thể gây thiếu máu, một bệnh đặc biệt dễ mắc phải trong thời gian mang thai do quá trình phát triển của thai nhi yêu cầu cơ thể mẹ cung cấp tới hàng triệu tế bào máu. Một bát nhỏ sung hầm chứa khoảng 3 mg sắt ( 10% lượng khuyến cáo mỗi ngày). Cùng một lượng sung trên cũng có thể cung cấp tới 23 micro gam vitamin K cần thiết cho quá trình đông máu và hình thành xương.

Nếu bạn không thích ăn những quả sung khô toàn hạt, bạn cũng thể sử dụng sung tươi xay nhuyễn và chế thành nước sinh tố dễ uống.



2. Lá hẹ

Hẹ thường được dùng để trang trí món ăn, nên đôi khi chúng ta có thể đã lãng phí một nguồn cung cấp vitamin rất dồi dào này. Những lá hẹ nhỏ mềm có chứa một lượng rất lớn chất folate (dạng tổng hợp của axit folic), sắt, chất xơ, vitamin C, vitamin B6, canxi và magie. Axit folic có thể được xem là chất dinh dưỡng quan trọng thứ yếu trong sự phát triển 3 tháng đầu của thai nhi. Nếu thiếu chất này, thai nhi có nhiều nguy cơ gặp các khiếm khuyết trong cấu trúc cơ thể rất nguy hiểm. Trong 2 muỗng canh hẹ có chứa khoảng 6.4 micro gam folate.

Vitamin C có thể coi là chất xúc tác cho quá trình hấp thụ sắt của cơ thể. Lá hẹ chính là một sự kết hợp hoàn hảo của 2 chất này khi cung cáp đồng thời khoảng 3.5 mili gam vitamin C và 0.1 mili gam sắt mỗi 2 muỗng canh. Ngoài ra, magie có trong hẹ cũng làm giảm nguy cơ bị táo bón, một triệu chứng phổ biến trong thai kỳ. Theo thống kê khoa học, magie tham gia vào khoảng hơn 300 phản ứng của tế bào, vì vậy việc cung cấp đầy đủ magie cho cơ thể là vô cùng quan trọng cho sức khỏe của mẹ cũng như thai nhi.

Hẹ rất dễ mua ngoài chợ hay trong siêu thị, và cũng khá dễ trồng ngay tại nhà mà không chiếm mấy diện tích. Bạn có thể thêm hẹ lên trên bát súp hay canh ngao, thậm chí rắc lên ăn kèm với món khoai tây chiên yêu thích, vừa dễ ăn mà còn rất bổ dưỡng.

3. Đậu pinto (đậu Ấn Độ hay đậu lang)



Đậu pinto được xem như một trong những thực phẩm giàu dinh dưỡng và an toàn nhất đối với con người. Trong ½ chén đậu pinto sấy khô có chứa 1 mili gam đồng (1% lượng khuyến cáo trên ngày), 5 mili gam sắt (19% lượng khuyến cáo trên ngày) và hơn 400 mili gam phốt pho (trên 50% lượng khuyến cáo trên ngày). Việc bổ sung đồng và sắt giúp thúc đẩy quá trình hình thành tế bào máu và phân tử hemoglobin – một chất vô cùng quan trọng trong tế bào máu giúp vận chuyển oxi từ phổi của người mẹ tới thai nhi. Ngoài ra lượng phốt pho trong đậu pinto cũng góp phần đảm bảo cho răng và xương của em bé phát triển bền vững.

Ngoài ra đậu pinto cũng là nguồn bổ sung lượng chất xơ khá cao, với khoảng 15 gam chất xơ trong ½ chén nhỏ (cơ thể cần 28 gam chất xơ mỗi ngày). Đậu pinto với hàm lượng chất xơ cao cũng làm giảm các hiện tượng ốm nghén như nôn và buồn nôn trong 3 tháng đầu thai kì.

Cách bổ dưỡng và cũng là kinh tế nhất để sử dụng đậu pinto là mua đậu khô và xay lấy nước uống hay nấu cháo. Nếu bạn sử dụng đậu đóng hộp thì nên chú ý rửa kĩ chúng trước khi sử dụng để loại bỏ các chất xử lý thực phẩm.

4. Tỏi tây

Tỏi tây có thể được xem như viên uống đa vitamin. Chỉ với một chén tỏi tây tươi đã có thể cung cấp cho cơ thể khoảng 0.2 mili gam vitamin B6 (10% lượng khuyến cáo), 40 micro gam vitamin K, ngoài ra còn có 2 micro gam sắt và 0.4 micro gam man gan. Man gan có trong tỏi tây là chất đặc biệt quan trong cho việt hình thành các mô xương của thai nhi. Ngoài ra hàm lượng cao canxi có trong tỏi tây cũng có thể chống lại một số triệu chứng phổ biến trong thai kỳ như kích thích, mất ngủ, hay đau lưng và chân.

Tỏi tây có hương vị ngọt nhẹ mà không quá hăng như tỏi ta cũng có thể hạn chế các triệu chứng ốm nghén. Nếu dạ dày của bạn quá nhạy cảm và không chịu được các loại súp thông thường, thêm một chút tỏi tây thái lát và gừng tươi có thể sẽ dễ ăn hơn.

5. A-ti-sô



Nếu bạn cảm thấy uể oải và chậm chạp thì một tách trà a-ti-sô thơm dịu chính là giải pháp hữu hiệu giúp tinh thần mẹ bầu tỉnh táo trở lại. Ngoài ra, trong a-ti-sô cũng có chứa một lượng đáng kể sắt và folate (dạng tổng hợp của axit folic). Chất xơ trong hoa a-ti-sô cũng làm giảm nguy cơ ăn khó tiêu của mẹ bầu.

A-ti-sô rất dễ sử dụng. Đơn giản bạn có thể uống trà a-ti-sô mỗi ngày hay cầu kỳ hơn có thể thêm dầu a-ti-sô vào salad để thưởng thức.

6. Hạt bí ngô

Trong quá trình mang thai, tử cung của người mẹ lớn dần lên đòi hỏi cơ bắp ở lưng, bụng và hông cũng phải căng ra để thích nghi với kích thước của thai nhi. Chính vì vậy, khi mang thai người mẹ cần phải chú ý bổ sung nhiều hơn nguồn protein để giúp cơ bắp hoàn thành nhiệm vụ này. ½ chén bí ngô có chứa tới 8 gam protein hoàn toàn có thể là nguồn cung cấp protein an toàn cho mẹ bầu mỗi ngày. Ngoài ra, trong mỗi hạt giống nho nhỏ này còn chứa nhiều nguyên tố quan trọng cho cơ thể khác như natri, kali, phốt pho, canxi và một số khoáng chất khác cần thiết cho sự hoạt động của cơ bắp cũng như thúc đẩy quá trình hấp thụ nước. Đặc biệt, lượng kẽm có trong 1 chén hạt bí ngô cũng khá lớn, tương đương với ½ nhu cầu hàng ngày của phụ nữ mang thai. Kẽm chính là khoáng chất quan trọng trong quá trình làm lành vết thương.

Theo tính toán, một chén hạt bí ngô có chứa tới hơn 25% lượng magie khuyến cáo hàng ngày cho cơ thể. Magie chính là chất xúc tác giúp tăng tốc độ biến đổi các-bon hi-đờ-rát, chất béo và protein thành năng lượng. Ngoài ra, cùng một lượng hạt bí ngô trên còn cung cấp tới 2 mili gam sắt.

Theo các kết quả nghiên cứu chính thức, hạt bí ngô rang có nhiều protein, khoáng chất và chất xơ hơn so với hạt tươi. Bí ngô hầu như có quanh năm và cũng khá dễ mua. Mẹ bầu có thể rang hạt tươi ngay tại nhà để ăn trực tiếp hay xay nhỏ, rắc lên bánh nướng ăn kèm đều rất ngon.

7. Vừng

Hạt vừng có chứa omega-6 (một loại axit béo), là chất quan trọng trong việc ngăn ngừa các bệnh tim mạch do khả năng làm giảm cholesterol và triglyceride trong máu. Trong 2 muỗng canh hạt vừng hay dầu vừng có chứa tới 6 gam omega-6 cần thiết cho sự phát triển của tế bào và đảm bảo chức năng của cả hệ thần kinh và hệ miễn dịch cho mẹ bầu trong thời kỳ mang thai.

Ngoài ra, tuyến sữa, nhau thai và tử cung của phụ nữ mang thai có thể phát triển hoàn hảo cũng phụ thuộc khá nhiều vào việc cơ thể có được cung cấp đủ các axit béo như omega-6 này hay không. Vừng cũng chứa rất nhiều nguyên tố chìa khóa cho sự phát triển khỏe mạnh của thai nhi như phốt pho, đồng, man gan và thiamin (một vitamin thuộc nhóm B).

Rất may là vừng cũng được sử dụng để chế biến khá nhiều loại bánh dễ ăn như bánh đa, bánh quy. Ngoài ra, bạn cũng có thể tự làm món khai vị độc đáo chứa vừng cho mình một cách đơn giản như sau: xay nhỏ đậu xanh đã nẫu nhuyễn, thêm tỏi, nước cốt chanh và dầu vừng vừa lượng ăn.

8. Húng quế

Có thể bạn chưa biết nhưng lá húng quế lại là một nguồn cung cấp vitamin rất dồi dào bao gồm: vitamin A, vitamin C, vitamin K, vitamin B6, vitamin E. Ngoài ra húng quế còn chứa rất nhiều các nguyên tố khoáng quan trọng khác như: magie, phố pho, kẽm, đồng và man gan. Bạn nên sử dụng là húng quế tươi bởi lá tươi còn giữ được nhiều chất dinh dưỡng hơn so với lá khô.

Húng quế rất dễ tìm và thường được làm để tăng mùi thơm hấp dẫn cho thức ăn. Bạn có thể ăn húng quế như một loại rau sống hoặc rắc lên sa lát hay bánh mỳ ăn kèm đều rất ‘dậy mùi’.

9. Cá trích

Trong 100 gam cá trích có chứa khoảng 2 gam axit docosahexaenoic hay còn gọi là DHA có tác dụng hỗ trợ sự phát triển não bộ của thai nhi. Ngoài ra, do hàm lượng dầu cá cao nên cá trích còn thường được sử dụng để chế biến dầu cá với rất nhiều tác dụng quý giá. Thêm vào đó, theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí dinh dưỡng lâm sàng Hoa Kỳ, những phụ nữ có hàm lượng dầu cá trong máu cao sẽ sinh em bé có chất lượng giấc ngủ tốt hơn so với các phụ nữ còn lại.

Các chuyên gia cũng giả thiết rằng chất lượng giấc ngủ của trẻ phản ánh mức độ phát triển của hệ thần kinh, vì vậy ăn thêm nhiều các loại cá cũng sẽ góp phần quan trọng vào việc nuôi dưỡng bộ não khỏe mạnh cho thai nhi ngay từ khi còn trong bụng mẹ.

Xương cá trích tương đối mềm nên khá dễ ăn. Bạn có thể kho nhạt lên ăn thông thường hay hấp hoặc nướng đều được.

10. Mật đường (rỉ đường hay mật mía)

Bạn có thể cảm thấy mật đường hơi quá ngọt nhưng thực ra mật đường lại có khá nhiều chất dinh dưỡng quý giá đấy. Trong một thìa cà phê mật đường có chứa 15% lượng man gan khuyến cáo cho cơ thể mỗi ngày, 290 mili gam kali (8% nhu cầu khuyến cáo hàng ngày), 0.1 mili gam vitamin B6 (7% lượng khuyến cáo mỗi ngày) và magie.

Man gan là khoáng chất đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển xương của em bé. Vitamin B6 giúp cân bằng lượng natri và phốt pho, cần thiết trong việc duy trì lượng nước tối ưu trong cơ thể con người. Hơn thế nữa, vitamin B6 và kali còn ngăn ngừa được tình trạng phù chân hay mắt cá chân bị sưng tấy khi mang thai.

Bổ sung mật đường bằng cách ăn kèm với bột yến mạch hay dùng để nướng bánh hay sốt thịt đều ngon tuyệt vời.



Theo Linh Hương (Theo Fitpregnancy) (Khám phá

Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

Những bà mẹ dễ sinh con dị tật

Trong suốt 9 tháng nằm trong bụng mẹ, sự lớn lên của thai nhi có ảnh hưởng trực tiếp từ sức khỏe người mẹ. Mối quan tâm lớn nhất của chị em là làm thế nào để thai nhi có thể phát triển tốt nhất. Vậy hãy tránh xa 8 “lỗi” dưới đây:

Mẹ đang bị bệnh vẫn mang bầu

Một người phụ nữ mang thai mà mắc bệnh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, đặc biệt là các bệnh như rubella, viêm gan siêu vi, nhiễm cytomegalovirus, viêm thận… Những căn bệnh nguy hiểm này có thể khiến mẹ bầu bị sảy thai, sinh non, thai chết lưu hoặc thai nhi dị tật.

Mẹ bầu tự ý sử dụng thuốc

Nhiều loại thuốc có thể đi qua máu của người mẹ và đi vào nhau thai ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, nghiêm trọng hơn cả là có thể gây dị tật thai nhi. Những loại thuốc nguy hiểm nhất là thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau hạ sốt, thuốc ngủ, thuốc chống ung thư…

Mẹ bầu thường xuyên stress



Nếu mẹ thường xuyên sống trong tâm trạng lo lắng, mệt mỏi, trầm cảm thì không chỉ gây bất lợi cho chính sức khỏe của mình mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tâm lý và trí tuệ của thai nhi. Thậm chí, nghiên cứu của các nhà khoa học còn chỉ ra rằng, bà bầu thường xuyên buồn phiền, khóc lóc sẽ sinh ra những đứa con có tâm trạng không tốt sau này.

Mẹ nghiện rượu

Rượu sẽ theo máu của người mẹ đi vào nhau thai và gây tổn thương trực tiếp đến thai nhi, thậm chí gây sinh non, sảy thai và thai chết lưu. Trong nhiều trường hợp, mẹ uống rượu khi mang thai còn khiến tâm lý của trẻ phát triển không ổn định sau này. Trong những nguyên tắc để sinh con thông minh, luôn luôn cấm kỵ đồ uống chứa cồn là rượu.

Mẹ hút thuốc lá



Hút thuốc lá có thể giúp mẹ thể hiện cá tính mãnh mẽ hoặc giảm áp lực trong công việc, cuộc sống nhưng việc này không dành cho các mẹ bầu. Các nhà khoa học Anh đã chỉ ra rằng, các bà mẹ hút nhiều thuốc không chỉ gây tổn hại đến chính sức khỏe của mình mà còn gây hại cho thai nhi. Chất độc từ thuốc lá, đi vào máu tới nhau thai có thể khiến mẹ bị sảy thai, sinh con, thai chết lưu, dị tật thai nhi và nhiều biến chứng thai kỳ khác.

Mẹ chụp X-quang khi mang thai

Những bà mẹ cố tình chụp X-quang khi đang mang thai có thể gây nguy hiểm cho thai nhi, khiến sảy tai, sinh non, thai nhi chết lưu hoặc bé chậm phát triển.

Mẹ lười chăm sóc trước sinh

Chăm sóc sức khỏe trước khi mang thai là việc vô cùng quan trọng để chuẩn bị sức khỏe tốt nhất cho một thai kỳ hoàn hảo. Trước khi mang thai, mẹ cần tiêm phòng đẩy đủ và nên bổ sung axit folic 3-6 tháng để ngăn ngừa dị tật thai nhi.



Theo Thảo Nguyên (Theo Ifeng) (Khám phá)

Thứ Tư, 25 tháng 2, 2015

25 từ bé PHẢI nói được trước 2 tuổi

Trong khoảng 2 tuổi, hầu hết trẻ em đã có thể nói được. Có bé chỉ mới bập bẹ được vài từ. Có bé lại nói được cả câu, dài và rõ ràng. Các từ trẻ 2 tuổi nói được thường rất nhiều và phong phú, từ đơn từ ghép đủ cả. Tuy nhiên, các nhà khoa học thuộc trường Đại học Bryn Mawr (Mỹ) mới đây đã công bố kết quả một cuộc khảo sát rộng rãi cho thấy trẻ 2 tuổi có thể nói được ít nhất 25 từ trong danh sách dưới đây.

MẹBốÔngMăm
ƠiĐóiChàoSữa
Bye Bye (bai bai)
ChơiHếtKhôngĐi
ChóMèoMũiGiầy
BóngMắtNóngTắmSách



Danh sách 25 từ này được hình thành dựa trên những từ hay lặp đi lặp lại nhiều nhất trong các cuộc trò chuyện của bố mẹ với bé. Đồng thời, các nhà khoa học cũng gợi ý rằng, nếu bé không nói được những từ trong danh sách này, mẹ cần nghiêm túc nhìn nhận lại cách dạy dỗ của mình và tham khảo ý kiến của chuyên gia nếu cần.




Chậm nói được chia thành hai loại, chậm nói đơn thuần và chậm nói tự kỷ. Hiện tượng chậm nói đơn thuần ở trẻ em là do bị rối loạn trong việc phát triển ngôn ngữ. Còn trẻ tự kỷ thường bị chậm nói, không hiểu ngôn ngữ, sống với một thế giới riêng, tách biệt với thế giới xung quanh. Trẻ chậm nói có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Những nguyên nhân chậm nói ở trẻ do nội tại cơ thể

- Mất thính lực được coi là nguyên nhân đầu tiên.

- Nguyên nhân có thể do di truyền, chấn thương sọ não, viêm não, động kinh, động kinh, dị tật cơ quan phát âm, viêm thanh quản, viêm tai giữa.

- Những trẻ chậm phát triển tâm thần đều chậm nói.

- Bên cạnh đó, trong quá trình thụ thai, người cha uống rượu nhiều cũng có thể làm tinh trùng suy yếu, và ảnh hưởng lên phần não điều khiển ngôn ngữ khi bào thai phát triển.




Các yếu tố tác động đến trẻ khiến cho quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ chậm lại 

- Trẻ ngồi xem ti vi quá nhiều, bố mẹ ít nói chuyện với con, khiến cho trẻ chỉ nhận thông tin một chiều, không có sự phản hồi lại những thông tin nhận được từ ti vi, như vậy trong một thời gian dài sẽ làm trẻ chậm nói.

- Trẻ suy dinh dưỡng, thiếu tình thương của bố mẹ, trẻ bị ngược đãi.

- Bố mẹ phó mặc con cho người giúp việc, vì lo làm công việc trong nhà nên không có thời gian trò chuyện với trẻ, trẻ không có cơ hội được nói.

- Trẻ bị tách ra khỏi môi trường xung quanh tạo cơ hội bắt chước.

Mẹ hãy đếm xem bé nhà mình nói được bao nhiêu từ, ở tháng tuổi nào và để lại bình luận (comment) để so sánh nhé!

Thứ Sáu, 13 tháng 2, 2015

9 món ăn nhanh cực tốt cho mẹ sau sinh

Vẫn còn cho con bú mà đã phải đi làm chắc chắn sẽ khiến nhiều bà mẹ ‘cuống’ lên vì sợ không có thời gian để ăn uống đầy đủ. Xin gợi ý các mẹ một số đồ ăn vừa giàu dinh dưỡng mà cũng rất ‘cơ động’ dưới đây:

1. Cháo bột yến mạch

Yến mạch là một loại thực phẩm giàu chất xơ có nguồn gốc hoàn toàn từ tự nhiên. Một bát cháo bột yến mạch vào bữa sáng có thể cung cấp cho bạn đủ năng lượng cần thiết trong cả buổi sáng làm việc, đồng thời cũng làm tăng nguồn sữa. Ngoài ra trong yến mạch có hàm lượng sắt tương đối cao, tốt cho cả mẹ và em bé. Việc bạn có ít sữa cũng một phần do nguyên nhân thiếu sắt này.

Bột yến mạch không khó làm và có thể dùng lâu dài vì vậy khá tiện lợi nếu bạn muốn mang đi làm ăn một chút trong giờ nghỉ. Ngoài ra, cũng có khá nhiều loại bột ngũ cốc yến mạch, bánh quy hay sữa giàu yến mạch mà bạn có thể trữ sẵn trong nhà ăn ngay khi có thể mà không phải ngại chế biến mất thời gian.



2. Hạnh nhân (quả hạnh)

Hạnh nhân không những có nhiều protein mà còn là một nguồn cung cấp canxi không chứa sữa. Theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới, phụ nữ cho con bú nên bổ sung khoảng 1000 mg canxi mỗi ngày. Thiếu canxi có thể khiến bé quấy khóc nhiều, chậm lớn, xương và răng cũng kém phát triển hơn. Vì vậy hãy trữ thêm một túi hạnh nhân sấy sẵn sàng trong túi xách nhé!

3. Mơ

Quả mơ có chứa nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu cho cả mẹ và bé như: vitamin A, vitamin C, kali và chất xơ. Ăn mơ giúp làm tăng lượng prolactin trong cơ thể mẹ - một hóc môn có chức năng ‘nhắc nhở’ cơ thể mẹ sản xuất sữa. Mơ tươi nguyên quả cũng giàu chất dinh dưỡng hơn mơ khô rất nhiều. Nếu việc tìm mua mơ tươi khó khăn do trái mùa thì bạn cũng có thể sử dụng các loại nước ép mơ tự nhiên thay thế.

4. Cá hồi

Cá hồi luôn là lựa chọn số một trong các loại cá đối với cả mẹ bầu cũng như mẹ cho con bú bởi hàm lượng protein cao và nguồn DHA quý giá. DHA rất quan trọng đối với sự phát triển hệ thần kinh của trẻ, vì vậy ngay từ khi mang thai, mẹ bầu cũng nên chú ý ăn bổ sung. Ngoài ra, nếu bạn không uống được sữa thì ăn cá hồi hay thậm chí cá hồi đóng hộp đều có thể bổ sung đủ lượng canxi cần thiết cho cơ thể, do trong xương cá hồi có chứa hàm lượng canxi khá cao.

5. Sữa chua



Ngoài vô số tác dụng làm đẹp da, sữa chua còn là một nguồn kết hợp của protein và canxi hoàn hảo, xứng đáng có mặt thường trực trong tủ lạnh nhà bạn. Trong sữa chua có chứa nhiều axit amin (đặc biệt là lisin), glupid, lipid và các muối kháng, vitamin nhóm A, B cần thiết cho phụ nữ đang cho con bú. Chỉ với 200 gam sữa chua, cơ thể đã được cung cấp tới hơn 20% lượng protein và 30-40% lượng canxi khuyến cáo mỗi ngày. Ngoài ra, sữa chua cũng có tác dụng duy trì cảm giác ngon miệng và hạn chế tình trạng táo bón cho bé.

6. Rau bina (cải bó xôi hay rau chân vịt)

Thực tế, hầu hết các loại rau có màu xanh đậm (xanh tối) đều là thực phẩm khuyên dùng cho phụ nữ đang cho con bú. Cải bó xôi đặc biệt có nhiều canxi, tốt cho sự phát triển hệ xương và răng của bé. Cải bó xôi cũng rất dễ chế biến, bạn có thể nấu một bát canh rau cải thịt bò thông thường hoặc ăn tươi trong salad đều rất tốt.

7. Quả chà là

Cũng giống như mơ, trong quả chà là có chứa chất prolactin cần thiết cho quá trình tạo sữa của cơ thể mẹ. Hơn thế nữa, với vị ngọt nhẹ tự nhiên, bạn có thể ăn chà là nhiều mà không lo ‘ghê răng’ như mơ. Theo một nghiên cứu của các chuyên gia Ấn Độ công bố trên tờ The Times of India, trong quả chà là có rất nhiều khoáng chất thiết yếu như: canxi, lưu huỳnh, sắt, kali, phốt pho, man gan, đồng và magie. Trong 1 quả chà là có chứa tới 15.36 mili gam canxi. Ngoài ra, chà là khô cũng là một loại quả giàu chất xơ, 100 gam chà là cung cấp trung bình tới hơn 7 gam chất trơ, vượt trội hơn nhiều so với các loại quả tươi thông thường khác.

8. Vừng

Trong hạt vừng bé nhỏ có chứa khá nhiều khoáng chất quan trọng như: sắt, man gan, phốt pho, đồng và magie. Bánh nướng vừng hay ngũ cốc vừng đều là những món ăn bổ dưỡng mà cũng rất ‘cơ động’ cho mẹ trẻ bận rộn.

9. Gạo lứt

Gạo lứt còn giữ lại được nhiều chất dinh dưỡng và chất xơ hơn so với gạo đã xát trắng do có lượng cám trên hạt gạo. Nguồn cacbonhydrat có nhiều trong gạo lứt cũng giúp bạn duy trì và cân bằng lượng đường trong máu. Bạn cũng có thể yên tâm sử dụng các loại gạo lứt đóng gói bởi chúng hầu như vẫn giữ được hàm lượng chất dinh dưỡng tương tự như loại chúng ta làm thủ công.



Theo Linh Hương (Theo The bump) (Khám phá)

Thứ Năm, 12 tháng 2, 2015

Những thứ nên và không nên ăn khi đang cho con bú

Các mẹ đang trong thời kỳ cho con bú cần lưu ý về dinh dưỡng để giúp mẹ khỏe, con thông minh và phát triển toàn diện. Khi đang cho con bú các mẹ nên và không nên ăn những thực phẩm sau:

1. Những thực phẩm không nên ăn khi đang cho con bú:

Để đảm bảo được sức khỏe của bản thân mà vẫn không lo lắng về chất lượng sữa cho con, những bà mẹ đang cho con bú cần phải tránh hoặc hạn chế dùng những loại thực phẩm sau đây:

Socola

Phụ nữ đang cho con bú vẫn có thể ăn socola. Tuy nhiên nên chú ý là không ăn quá nhiều để tránh tình trạng tăng cân quá mức và đảm bảo chất lượng sữa. Các chuyên gia cho biết rằng, nếu ăn quá nhiều socola trong quá trình cho con bú thì không tốt cho sức khỏe của cả người mẹ lẫn em bé vì nó sẽ gây ảnh hưởng đến cảm giác ngon miệng. Trong socola có chứa theobromine, tích lũy quá nhiều chất này trong cơ thể có thể gây ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh, tim của trẻ nhỏ.

Trà

Uống trà sẽ gây ảnh hưởng tới chất lượng sữa và khi trẻ bú sữa mẹ sẽ bị mất ngủ, gây ảnh hưởng tới sức khỏe.

Bột ngọt

Khi đang trong thời kỳ cho con bú, tốt nhất là các bà mẹ không nên ăn quá nhiều đồ ăn có chứa bột ngọt. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng, trẻ có thể sẽ bị chậm tăng trưởng hoặc chịu hậu quả khi bú sữa của mẹ ăn đồ ăn chứa nhiều bột ngọt.



Rượu

Một lượng rượu nhỏ mà mẹ uống cũng có thể ảnh hưởng tới sự tiết sữa. Ngoài ra nó cũng sẽ tác động tới sự co lại của tử cung. Chính vì vậy mà các bà mẹ đang cho con bú không nên uống rượu. Thuốc lá cũng là thứ cần tránh trong giai đoạn này vì lượng nocotine có thể sẽ ảnh hưởng tới sữa và tác động tới đường hô hấp của trẻ. Tốt nhất là bà mẹ nuôi con nên bỏ thuốc lá và tránh tiếp xúc với khói thuốc.

Một số loại hoa quả

Trái cây tốt cho cơ thể, tuy nhiên một số loại trái cây có vị chua, loại trái cây có tính hàn vì chúng sẽ khiến bé khó chịu, tiêu chảy hoặc nôn mửa. Bởi vậy, trong quá trình đang cho con bú thì các mẹ nên ăn những loại trái cây trung tính như táo, nho, dứa, long nhãn… Trái cây để trong tủ lạnh quá lâu cũng không tốt cho trẻ nhỏ, bởi vậy, nếu các mẹ muốn ăn trái cây đã được cất trong tủ lạnh thì hãy lấy ra trước khi ăn khoảng nửa giờ cho bớt lạnh rồi mới ăn.

Đồ uống có ga và cà phê



Chất cafein có trong cà phê có thể gây kích thích hệ thống thần kinh. Hiện tại vẫn chưa có bằng chứng cụ thể về tác hại của cà phê đến cơ thể của trẻ nhỏ. Tuy nhiên, tốt nhất là các bà mẹ đang cho con bú không nên uống cà phê để tránh ảnh hưởng đến chất lượng sữa. Với đồ uống có ga cũng như vậy.

2. Những nhóm chất làm tăng chất lượng sữa mẹ

Dinh dưỡng khi cho con bú đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của bé và việc phục hồi của cơ thể mẹ sau sinh. Vì vậy các mẹ đang cho con bú đừng bỏ qua những nhóm chất sau:

Protein: Protein là chất cơ bản tốt cho sự tăng trưởng và phát triển ở trẻ nhỏ. Protein có nhiều trong cá, thịt gia cầm, nội tạng động vật, trứng và các sản phẩm từ sữa…

Carbohydrates: Đây là nguồn năng lượng cần thiết cho cơ thể mẹ và bé. Carbohydrates có nhiều trong gạo, bột mì, ngũ cốc, khoai tây, khoai lang. Bởi vậy, để đảm bảo chất lượng sữa, các bà mẹ hãy ăn nhiều những sản phẩm trên.

Chất béo: Theo các chuyên gia thì trong 2 năm đầu đời, trẻ cần một lượng lớn chất béo để phát triển. Ngoài việc cung cấp đủ năng lượng cho cơ thể mà nó còn cung cấp các acid béo cần thiết cho sự phát triển não bộ ở trẻ nhỏ. Chất béo lành mạnh có nhiều trong dầu đậu phộng, dầu đậu nành, dầu thực vật, dầu mè, cá, sữa, thịt, quả óc chó, các loại hạt… Các mẹ cũng nên nên lưu ý tránh ăn các loại thực phẩm giàu chất béo bão hòa và trans-fat. Vì bản thân các chất béo không lành mạnh này có thể tác động ngăn chặn việc sản xuất omega-3 (loại acid béo cực cần thiết cho sự phát triển của trẻ).

Vitamin: Các loại rau màu xanh đậm, màu đỏ, màu vàng thường chứa rất nhiều vitamin A. Ánh sáng mặt trời, thịt nạc, trứng, gan, ngũ cốc cung cấp nhiều vitamin D. Nấm, trái cây tươi như táo, kiwwi lại chứa nhiều vitamin B và C… Những loại vitamin này không chỉ giúp cải thiện sức đề kháng của cơ thể mà còn đóng góp vào sự tăng trưởng, phát triển ở trẻ nhỏ.

Khoáng chất: Các khoáng chất như canxi, sắt, kẽm, magiê, mangan, iot giúp phục hồi cơ thể. Sau khi sinh, các mẹ nên ăn nhiều thực phẩm như sữa, đậu, vừng, tảo bẹ và rong biển.

Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

Tuyệt đối không rung lắc trẻ dưới 2 tuổi

Kèm theo sự tung lắc, xốc trẻ khi chơi đùa là tiếng cười như nắc nẻ ngộ nghĩnh của bé. Tuy nhiên, hãy dừng lại ngay! Vì điều này rất nguy hiểm cho não, có thể để lại những di chứng nặng nề, thậm chí tử vong…

Tổn thương não

Theo bác sĩ Nguyễn Văn Phúc, Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Xanh Pôn, Hà Nội, đa số hội chứng rung lắc gặp ở trẻ dưới 2 tuổi, trong đó, tỉ lệ mắc hội chứng lắc xảy ra cao nhất ở trẻ nhũ nhi (0-6 tháng tuổi). Ở trẻ sơ sinh, kích thước đầu và trọng lượng chiếm khoảng 1-4 so với toàn cơ thể. Trong đầu, có những khoảng trống giữa não và xương sọ cho phép não tiếp tục lớn và phát triển.



Não của trẻ khá mềm với màng não mỏng. Khối cơ của cổ lại quá yếu không đủ sức nâng đỡ đầu, nên khi bị rung lắc sẽ có khuynh hướng gập tới gập lui hay xoay qua xoay lại một cách không kiểm soát được.

Khi bị rung lắc, xương sọ mềm và dẻo của trẻ không chịu được những lực này, sẽ chuyển lực tới não, khi não không có sự di chuyển đồng bộ và gây ra sự va đập trở lại tới xương sọ, làm dập não, tăng áp lực, phù và chảy máu trong não. Các tĩnh mạch lớn dọc theo phía ngoài não cũng mỏng manh và dễ rách, gây chảy máu, máu tụ dưới màng cứng, ngoài màng cứng, dưới màng nhện, tăng áp lực nội sọ.

Những tổn thương này có thể là vĩnh viễn

Hậu quả có thể còn nặng nề hơn nếu đầu trẻ va cham mạnh vào một bề mặt nào đó như tường, sàn nhà hay giường. Khi đó, trẻ bị dừng lại đột ngột bởi một va chạm mạnh, hậu quả là não sẽ bị xoắn vặn trong hộp sọ dẫn đến tình trạng các mạch máu và thần kinh của não bị vỡ, các mô não bị xé ra gây xuất huyết não, phù não, tăng áp lực nội sọ.

Các nghiên cứu cho thấy, những tổn thương có thể xảy ra chỉ với 5 giây rung lắc. Rung lắc mạnh có thể gây ra những tổn thương não vĩnh viễn. Trường hợp rất nặng có thể dẫn đến tử vong.



Nguyên nhân từ sự vô tình

Có thể bạn sẽ giật mình khi biết nguyên nhân mà đôi khi chính bạn cũng đã đang vô tình sử dụng với trẻ trong khi chăm sóc và chơi đùa. Không kìm nén được cơn tức giận khi trẻ khóc hay quấy, nhiều bậc cha mẹ mất tự chủ hoặc có thói quen sốc trẻ lên cao hoặc lắc dữ dội để thoả cơn giận.

Các ông bố có khuynh hướng hay biểu hiện sự yêu thương con bằng cách lắc trẻ hoặc tung lên rồi bắt lấy hay trò chơi “nhong nhong ngựa ông đã về” để trẻ lên chân rồi lắc. Việc ru cho trẻ ngủ bằng cách lắc lắc, đu đưa trên tay cũng có thể nguy hiểm. Hoặc trẻ ở tư thế đứng khi đi đường xe xóc, khiến trẻ gập tới gập lui.

Khó phát hiện

Vì triệu chứng của bệnh thường không rõ ràng và dễ nhầm lẫn với một số tình trạng khác như nhiễm siêu vi, rối loạn tiêu hóa…nên khó phát hiện, nhất là những trường hợp nhẹ, thường bị bỏ qua.

Trẻ thường có các biểu hiện sau: Quấy khóc nhiều, bỏ ăn hay bỏ bú, ói, ngủ lịm, gương mặt không cảm xúc, không chịu cười đùa, trương lực cơ kém (cơ nhẽo), da xanh tái, nhìn thấy rõ nhất vùng trán. Ở thể nhẹ này, ít cha mẹ nào nghĩ rằng con mình bệnh mà đưa đến bác sĩ khám. Và điều nguy hiểm cũng chính ở điểm này, vì không biết nên càng rung lắc khiến trẻ tổn thương nặng hơn.

Nặng hơn là khó thở, ngừng thở hoặc co giật. Những dấu hiệu cho thấy chấn thương cổ, sưng nề, cứng cổ, nghẹo về một bên, khó quay. Do đó, khi thấy trẻ có dấu hiệu này và có kèm theo tình trạng hay lắc trẻ, bạn hãy nghĩ đến ngay đến hội chứng này, hãy đưa đến bác sĩ thăm khám và tư vấn thích hợp.



Đừng xem thường cái lắc

Để phòng ngừa những nguy hiểm do hội chứng này, Bác sĩ Lê Thanh Hải, Phó Giám đốc BV Nhi Trung ương khuyến cáo, tuyệt đối không được đung đưa mạnh đối với trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ từ 0-6 tháng. Bởi những tổn thương không chỉ xảy ra trong thời điểm hiện tại mà có thể ảnh hưởng về lâu dài.

Các bậc cha mẹ cũng không nên có những động tác làm thay đổi từ thế trẻ nhanh đột ngột như: Trẻ đang năm được bế thốc dậy, nhấc bổng trẻ lên cao, xốc nách nhấc trẻ lên cao rồi hạ xuống. Đặc biệt, khi trẻ quấy khóc hoặc làm một việc gì đó không vừa lòng, người lớn không nên tát, đánh vào đầu trẻ.

Khi di chuyển trẻ, hãy giữ cổ ở tư thế tương đối cố định. Không ôm giữ trẻ khi cãi cọ. Khi trẻ khóc kéo dài không dỗ được cần phải kiểm tra kỹ nguyên nhân, không nên bỏ qua chi tiết này. Những bậc ông bà của trẻ cũng không nên vì qúa yêu trẻ mà rung lắc hay tạo áp lực cho cha mẹ của trẻ khi trẻ khóc nhiều.

8 triệu chứng ở trẻ nếu chủ quan là nguy hiểm tính mạng

Khi thấy bé xuất hiện những triệu chứng bất thường sau, cha mẹ không được lơ là để tránh những hậu quả khôn lường. Hãy đưa bé đi khám ngay lập tức!

Khi trở thành cha mẹ, nghĩa là bạn phải kiêm luôn vai trò bác sĩ cho con, phải học cách bắt bệnh mỗi khi trẻ có triệu chứng sức khỏe bất thường, từ cái hắt hơi, sổ mũi hay cơn ho, đau bụng… Bạn cũng phải biết cách xử lý những tình huống thông thường và đặc biệt phải nhận biết những dấu hiệu nguy hiểm của trẻ để đưa đến bác sỹ kịp thời.

1. Đau bụng



Trẻ lớn xuất hiện đau bụng phía dưới, bên phải hoặc đột nhiên đau quặn bụng… thì mẹ hãy bảo trẻ thử nhảy lên xuống, nếu thấy đau hơn khi làm vậy thì đó có thể là dấu hiệu đau ruột thừa. Nếu trẻ nhỏ bị đau bụng thất thường, lúc thì quặn thắt lúc lại không sao, đó có thể là dấu hiệu của chứng lồng ruột – một loại rối loạn nghiêm trọng ở trẻ nhỏ khi các đoạn ruột bị vướng vào nhau.

Xử trí: Trong cả hai trường hợp trên đều phải nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện để chẩn đoán và điều trị kịp thời.

2. Da trẻ xuất hiện các ban bất thường

Trên da trẻ xuất hiện những nốt mẩn theo các xoáy tròn, có những đốm nhỏ li ti không biến mất khi ấn lên da, hoặc xuất hiện các vết bầm lớn thì cần cho trẻ đi khám vì đó có thể là dấu hiệu của nhiều bệnh nguy hiểm như rối loạn đông máu.

Nếu tự nhiên trên da lại xuất hiện ban lớn đa hình thái, thường hơi sưng lên và ngứa có thể là dấu hiệu dị ứng. Ngoài ra trẻ có thể kèm sưng môi hoặc khò khè khó thở… cần nhanh chóng cho trẻ gặp bác sĩ để điều trị và tìm hiểu nguyên nhân.

Xuất hiện nốt ruồi mới hoặc hình dạng nốt ruồi cũ thay đổi: Hãy chú ý kiểm tra da của trẻ thật kỹ khi tắm và hỏi ý kiến bác sĩ khi nốt ruồi bỗng “biến hình” hoặc sưng lên… vì đó có thể là dấu hiệu ban đầu của bệnh ung thư da.



3. Môi tím tái

Bác sỹ nhi khoa Carrie của Trung tâm y tế Đại học Rush ở Chicago cho biết: Nếu thấy môi trẻ chuyển từ màu đỏ sang tím tái, hoặc trong lưỡi có chất nhầy xuất hiện thì đó là biểu hiện của tình trạng thiếu ô xy ở trẻ.

Xử trí: Khi con có hiện tượng này, bạn cần gọi xe cấp cứu càng sớm càng tốt.

4. Khó thở

Trẻ khỏe mạnh bình thường có hơi thở đều. Nếu trẻ có triệu chứng thở khó, nặng nề, trẻ bắt đầu sử dụng cơ ngực của mình thay vì mũi thì đó là dấu hiệu của sự bất thường trong đường thở, mà cụ thể là chứng suy hô hấp hay khó thở thanh quản. Hầu hết trẻ bị khó thở thanh quản đều có những dấu hiệu như hít thở khó, thở chậm, nghe có tiếng rít thanh quản khi thở, xuất hiện các cơn co kéo hô hấp nhất là tình trạng lõm ức và rút lõm lồng ngực.

Bên cạnh đó trẻ còn có những triệu chứng khác như khàn tiếng hay mất tiếng khi nói, ho, khóc. Đầu trẻ thường bị gật gù khi thở và hay bị ngửa ra sau trong thì hít vào. Nếu quan sát thì sẽ thấy sụn thanh quản nhô lên khi hít vào, mặt trẻ bị nhăn lại, hai cánh mũi nở rộng.

Xử trí: Trong trường hợp này, cha mẹ nên gọi bác sỹ nhi khoa ngay lập tức hoặc nhanh chóng đưa trẻ đến phòng cấp cứu.

5. Sốt 38 độ C (hoặc trên 100.4F) 

Trẻ em thường hay bị sốt do các bệnh nhiễm trùng do virus, vi khuẩn và ngay cả khi mọc răng. Tuy nhiên, khi cơn sốt trên 38 độ C tấn công trẻ thì cần lưu ý.

Nếu con bạn dưới hai tháng tuổi có triệu chứng sốt cao trên 38 độ C thì bạn cần phải đưa con đến cơ sở y tế để được thăm khám kịp thời. Vì đây có thể là dấu hiệu ban đầu của nhiều loại bệnh. Nhẹ thì có thể bé bị cảm lạnh nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu bé bị viêm màng não. Còn khi trẻ đã trên 2 tuổi, sốt là bệnh lý phổ biến nên bạn không cần quá lo lắng nếu thấy bé không mất nước và không có biểu hiện bất thường.

Xử trí: Đối với trẻ dưới 2 tháng, khi bị sốt, cần cho trẻ uống thuốc hạ nhiệt và đưa đi khám bác sĩ để xác định nguyên nhân gây sốt. Với trẻ đã trên 2 tuổi, hãy dùng thuốc hạ nhiệt như paracetamol với liều 10mg/kg/1 lần và 4-6 tiếng sau có thể nhắc lại. Nếu trẻ không hạ sốt dù đã uống thuốc, hoặc sốt kéo dài hơn 5 ngày, hãy đi khám tại các cơ sở y tế vì khả năng bị nhiễm khuẩn cao.

Trường hợp đặc biệt nguy hiểm, khi trẻ sốt và kèm theo xuất hiện các ban giống như vết bầm tím hoặc đốm nhỏ hình sao thì cha mẹ cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay vì đó có thể là dấu hiệu của bệnh viêm màng não, viêm não do mô cầu. Bệnh này rất nguy hiểm đến tính mạng vì diễn biến nhanh và nặng.

6. Vàng da

Không phải tất cả các bệnh vàng da đều nguy hiểm. Đây là triệu chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh, xảy ra ở 9% số trẻ đủ tháng (ở trẻ sinh non, tỷ lệ vàng da là 30%). Vàng da sinh lý xuất hiện tròng vòng 1 tuần sau khi trẻ ra đời không nguy hiểm, thường tự mất sau một thời gian ngắn, tuy nhiên vàng da bệnh lý có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.

Vàng da sinh lý là hiện tượng sinh lý bình thường, xảy ra do các hồng cầu của thai nhi bị phá hủy để được thay thế bằng hồng cầu trưởng thành. Khi hồng cầu bị vỡ, một lượng lớn Bilirubin – một chất có sắc tố màu vàng – được phóng thích vào máu, làm cho trẻ bị vàng da. Đa số các trường hợp vàng da ở trẻ sơ sinh đều nhẹ và tự khỏi sau 7-10 ngày, khi chất Bilirubin được đào thải hết qua phân và nước tiểu.



Tuy nhiên, có một số trường hợp vàng da nặng do chất Bilirubin tăng quá cao và thấm vào não (y học gọi là vàng da nhân). Tình trạng này rất nguy hiểm, có thể làm cho trẻ bị hôn mê, co giật, dẫn đến tử vong hoặc di chứng về tâm thần vận động vĩnh viễn.

Xử trí: Khi trẻ bị vàng da, hầu hết các bác sỹ sẽ tư vấn cho các bà mẹ cho con bú thường xuyên hơn để cơ thể bé đào thải những bilirubin dư thừa thông qua phân và nước tiểu. Nên cho trẻ đi khám sớm để có hướng điều trị kịp thời. Bác sĩ sẽ đặt trẻ dưới ánh đèn tia cực tím (UV) hay còn gọi là liệu pháp quang tuyến (phototherapy) để giúp cơ thể trẻ bẻ gãy bilirubin. Nếu sau bước này, bilirubin vẫn tăng cao thì các bác sỹ sẽ phải áp dụng phương pháp truyền máu cho trẻ.

7. Mất nước

 Trường hợp trẻ tè ít, tè không ướt tã thì đó là dấu hiệu trẻ bị thiếu nước, mất nước. Theo các chuyên gia nhi khoa, trẻ sơ sinh dưới 6 ngày tuổi mỗi ngày phải thay tã ít nhất 6 lần. Ngoài dấu hiệu nói trên, việc mất nước ở trẻ sơ sinh còn thể hiện ở chứng khô môi, khô miệng, mắt trũng, thờ ơ, đờ đẫn thiếu tập trung.

Xử trí: Trong trường hợp này, bác sĩ khuyến cáo các bậc cha mẹ nên cho trẻ bú bình thường, bổ sung thêm chất điện giải (Orezol). Không nên cho trẻ uống nước thường vì lúc này nước thường có thể làm giảm hàm lượng natri, có thể gây co giật. Nếu mất nước nhiều cần phải đưa trẻ đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt.

8. Ho có kèm mật xanh

Trong một số trường hợp, trẻ ho, khóc quá nhiều, hoặc thậm chí ăn nhiều là biểu hiện bất thường của dạ dày, hệ tiêu hóa, nhất là khi ho kèm theo mật xanh, hoặc có màu nâu đen giống như cà phê. Các chuyên gia nhi khoa cảnh báo, ho ra mật xanh là dấu hiệu bị lồng ruột, ruột bị tắc, còn nôn mửa có màu như bã cà phê là hiện tượng xuất huyết nội.

Xử trí: Nôn mửa sau khi chấn thương não cần phải khám và đánh giá ngay vì đây là dấu hiệu bất thường, ngoài ra nếu chấn thương sọ não không kèm theo nôn mửa cũng phải đưa đi bác sĩ ngay, tuy nhiên phần lớn là bình thường, không nên quá lo lắng, bác sĩ sẽ khám và đưa ra những quyết định cụ thể nhất.


Nguồn: Tri thức trẻ

Ho ở trẻ là nhóm bệnh hay bị lạm dụng kháng sinh trong điều trị nhiều nhất

Trẻ bị ho khiến cha mẹ lo lắng. Theo Phó giáo sư Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi, BV Bạch Mai (Hà Nội), không chỉ người dân mà thậm chí đôi khi cả các bác sĩ cũng lạm dụng thuốc kháng sinh. Ho ở trẻ là nhóm bệnh hay bị lạm dụng kháng sinh trong điều trị nhiều nhất.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia y tế, trẻ bị ho cha mẹ chớ nên để trẻ dùng kháng sinh mà nên áp dụng một số bài thuốc dân gian chữa bệnh hiệu quả như sau:

Nước vo gạo và rau diếp cá

Một nắm lá diếp cá, rửa sạch, giã nhuyễn. Sau đó, lấy một bát nước vo gạo trộn đều với diếp cá đã giã nhuyễn, đun sôi nhỏ lửa khoảng 20 phút. Cuối cùng, chỉ cần lọc lấy nước cho bé uống.

Củ cải trắng, gừng xay nhuyễn



Củ cải trắng, gừng xay nhuyễn bỏ vào bát sứ, thêm một ít nước lọc và một ít mật ong đem hấp cách thủy cỡ 10-15 phút đưa ra cho bé uống, mỗi lần 2-3 thìa cà phê, uống 3 lần/ một ngày.

Cây xương sông

Lá xương sông nên sử dụng búp lá non, không chỉ có tác dụng chữa ho mà còn chữa khản tiếng do viêm thanh quản. Lá xương sông có thể kết hợp cùng lá hẹ: rửa sạch, thái nhỏ, trộn đều với đường. Hấp cách thủy, rồi để nguội cho trẻ uống trong ngày.

Củ nghệ tươi

Củ nghệ tươi (người ta thường gọi củ nghệ cái), đem giã nhỏ, thêm nước lọc vào, 5g đường phèn đưa vào chưng cách thủy 10 phút cho bé uống, mỗi lần uống ½ thìa cà phê tùy vào độ tuổi của bé. Cứ như thế ngày uống 3 lần cho đến khi khỏi bệnh.

Quất xanh

2-3 quả quất xanh, rửa sạch, cắt ngang, để nguyên cả vỏ và hạt. Mang quất trộn với đường phèn hoặc mật ong rồi hấp cách thủy đến khi quất chín. Lưu ý là dằm cả vỏ, bỏ hạt, để nguội cho trẻ uống nhiều lần trong ngày.

Hạt quả quất xanh



Đối với hạt của quất xanh các mẹ không nên bỏ đi vì nó có tác dụng làm tiêu đờm và ấm thanh quản khi trẻ bị ho. Mùi vị quất có thể hơi khó uống đối với trẻ nên khi cho trẻ uống có thể cho thêm ít đường.

Lê + đường + xuyên bối

Chọn trái lê to, bỏ vỏ, cắt nắp, khoét bỏ lõi. Bỏ vào bên trong lê 2-3 cục đường phèn nhỏ. 5-6 hạt xuyên bối (mua ở quầy thuốc Đông y). Cho lê vào hấp cách thuỷ chừng 30 phút. Ngày cho bé ăn 2 lần. Có tác dụng chữa ho, viêm phổi, tiêu đờm.

Nước củ cải luộc

Củ cải trắng, cắt chừng 4-5 lát cho vào một nồi nhỏ, châm bát nước, đun sôi, sau đó để lửa liu riu thêm 5-10 phút. Cho bé uống nước này khi còn nóng điều trị ho, khô mũi, đau hong, ho khan, có đờm.

Hoa hồng bạch

Lấy cánh hoa hồng bạch rửa sạch trộn với lượng đường phèn vừa đủ, một ít nước lọc, đem hấp cách thủy. Cho bé uống 3-4 lần/ngày, 1 thìa/lần.

Nước tỏi hấp trị ho cho trẻ

Lấy 2-3 tép tỏi, đập dập, cho vào bát, thêm một nửa bát nước, 1 viên đường phèn, hấp cách thuỷ 15 phút. Không cần cho bé ăn tỏi, chỉ cần uống nước tỏi hấp này khi còn ấm, ngày 2-3 lần, vửa tốt cho dạ dày, phổi, vừa trị được ho, cảm lạnh.

Tỏi và mật ong

Giã nát hai tép tỏi, trộn với hai thìa cà phê mật ong, đem hấp cách thủy. Chú ý không được hấp chín tỏi, nếm thử thấy vị hắc mùi tỏi là được. Cho bé uống nửa thìa cà phê, ngày từ 1 – 2 lần. Trước khi uống, nên cho bé uống nước lọc.

Lá hẹ và đường phèn

Chọn khoảng 5-10 lá hẹ và một ít đường phèn. Tất cả cho vào bát, rồi mang hấp cách thủy. Sau đó bỏ xác lấy nước cho bé uống. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2-3 thìa.



Đu đủ chín

Một quả đu đủ gọt bỏ vỏ (lưu ý là đu đủ chín cây), cho 100ml mật ong vào, sau đó đun lên để ăn. Bài thuốc này dùng để chữa ho không có đờm.

Trà cam thảo

Cam thảo có chứa thành phần kháng khuẩn, làm dịu cổ họng. Trà cam thảo có vị ngọt, nên mẹ yên tâm khi cho trẻ uống, kể cả trẻ sơ sinh. Loại trà này sẽ giúp cơ thể trẻ ấm hơn và dịu họng hơn.

Húng chanh và quất

Chọn khoảng 15 – 16 lá húng chanh và từ 4 – 5 quả quất xanh, rửa sạch, cho vào máy xay sinh tố xay nhuyễn. Sau đó tất cả cho vào bát, thêm lượng đường phèn vừa đủ, hấp cách thủy khoảng 20 phút. Cho bé uống liên tục 1 – 2 lần/ngày đến khi hết ho

Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015

Lỗi vô tâm khiến mẹ dễ mất con

Cho con ăn thạch, để bé nằm ăn, đặt bàn gần cửa sổ là những lỗi cực nguy hiểm mà vẫn nhiều mẹ vô tư mắc phải.

Năm vừa rồi đã có rất nhiều trường hợp trẻ tử vong rất thương tâm do lỗi chủ quan của cha mẹ. Đừng phạm những lỗi cơ bản sau đây nếu mẹ không muốn con “lãnh đủ”.

Cho trẻ dưới 5 tuổi ăn thạch viên

Những loại thạch viên tròng đóng gọi đủ màu sắc có thể tìm mua ở bất cứ tiệm tạp hóa hay siêu thị nào thực ra lại chính là những “sát thủ ngọt ngào” đối với trẻ. Hóc thạch là loại nguy hiểm nhất vì rất dễ đưa đến tử vong. Thạch vốn trơn, lại thường được sản xuất dưới hình trụ, khi cho trẻ ăn nhiều người hay bóc lớp vỏ ngoài rồi bóp ở đầu chóp thạch, thạch sẽ được đẩy ra rất nhanh, mạnh. Nhiều trẻ bị cả miếng thạch đẩy vào miệng nhanh, bất ngờ trôi tọt vào cuống họng nên bị hóc dị vật, gây ngạt.




Thạch vốn mềm nên khi trôi xuống đường thở rất dễ thay đổi hình dáng, bám chặt lấy đường thở nên có thể khiến bệnh nhân tử vong ngay lập tức. Chưa kể, khi dùng dụng cụ gắp thạch ra cũng rất dễ gây vỡ vụn, những mảnh vụn này lại tiếp tục rơi sâu xuống đường thở, gây khó khăn cho việc cấp cứu. Để phòng ngừa, tốt nhất mẹ không nên cho trẻ dưới 5 tuổi ăn thạch.

Kê bàn cao cạnh cửa sổ, nhà chung cư không rào ban công

Đã có rất nhiều trường hợp trẻ nhỏ đến tuổi tập bò, tập đi hay ngay cả những bé mẫu giáo, tiểu học đã lớn nhưng vẫn nghịch ngợm, trèo lên bàn cạnh cửa sổ hoặc ban công và bị trượt ngã gây ra những cái chết rất thương tâm.

Ngã là tai nạn phổ biến nhất, chiếm tới 44% các trường hợp chấn thương trong gia đình.

Đối với trẻ sơ sinh, nguy cơ lớn nhất khi các con biết lật lẫy đó chính là lăn ra khỏi mép giường, cũi hoặc ghế sofa. Trẻ mới biết đi thì thậm chí càng nguy hiểm hơn. Ở độ tuổi ham khám phá, con rất hay trèo leo lên các đồ vật trong nhà, thậm chí bị ngã từ ban công, cầu thang hoặc cửa sổ. Để phòng tránh, mẹ cần:




– Khi đặt con nằm trên giường hoặc cũi luôn phải có thanh chặn ở hai bên. Nếu có thể, hãy dùng giường thấp kiểu Nhật thay vì giường có chân cao.

– Không để bàn hay ghế gần cửa sổ và ban công

– Luôn đóng cửa sổ và cửa ra vào. Nếu để mở, mẹ hãy lắp thêm dây cố định sao cho cửa không mở quá  10cm.

– Đảm bảo các thanh chắn cầu thang đủ hẹp để con không thể lách qua.

– Nếu nhà có ban công hở, hãy lắp thêm lưới kín hoặc lồng sắt để đảm bảo an toàn.

Tưa lưỡi con bằng mật ong


Phần lớn các bà, các mẹ ngày xưa khi nuôi con đều cho rằng mật ong rất an toàn cho trẻ nhỏ và thường dùng nó cho trẻ bị tưa lưỡi hay húng hắng ho. Thực ra, mật ong có thể gây nguy hiểm cho trẻ dưới 12 tháng tuổi nếu chứa bào tử clostridium botulinum – thủ phạm gây một chứng ngộ độc thực phẩm rất nguy hiểm. Tỷ lệ mật ong chứa bào tử vi khuẩn clostridium botulinum là 5%. Con số này rất nhỏ, do đó trường hợp ngộ độc mật ong ít xảy ra. Tuy nhiên nếu trẻ đã lỡ ăn phải, hậu quả nhẹ nhất sẽ là ảnh hưởng đến hệ thần kinh và thậm chí có thể gây tử vong.

Người lớn nuốt phải bào tử clostridium botulinum hầu như không bao giờ bị bệnh bởi hệ tiêu hoá của họ đã trưởng thành, đủ khả năng vô hiệu hoá chúng. Trong khi đó, ở trẻ dưới 12 tháng tuổi, hệ tiêu hoá còn chưa đủ các vi khuẩn hữu ích, chưa thể tiêu diệt bào tử, ngăn ngừa sự phát triển và sản sinh độc tố của chúng. Vì vậy, khi vào cơ thể trẻ, bào tử có thể giải phóng vi khuẩn và sản sinh độc tố.

Tự ước lượng liều lượng thuốc cho con

Câu nói “đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng” luôn được nhắc đi nhắc lại trong bất cứ một quảng cáo thuốc nào trên truyền hình. Vậy nhưng vẫn có rất nhiều chị em chủ quan với vấn đề này. Đơn cử như vấn đề dùng Oresol – một loại thuốc có trong tủ thuốc của tất cả các gia đình, có tác dụng bù nước cho bé bị tiêu chảy, mất nước. Pha oresol không đúng liều lượng không đơn giản là làm thuốc mất tác dụng mà thậm chí còn gây nguy hiểm tính mạng cho trẻ. Đã có rất nhiều trường hợp mẹ Việt cho con uống Oresol liều lượng cao và quá đặc dẫn đến phù não cấp, nặng có thể tử vong, nhẹ thì di chứng thần kinh không hồi phục.

Ngay cả với việc cho bé uống siro thuốc, nếu ghi chú yêu cầu 5ml/ lần, mẹ cũng nên đo đúng theo cốc đo thuốc đi kèm. Tuyệt đối không ước lượng bằng mắt.

Để trẻ ăn nằm

Câu chuyện về bé gái 12 tháng tuổi mới đi học được 2 ngày thì tử vong tại một trường mẫu giáo ở Long Biên hồi tháng 8/2013 vừa qua vẫn còn khiến dư luận đau xót. Nguyên nhân ban đầu được các bác sĩ cho rằng cháu bị sặc cháo.

Xung quanh vấn đề này, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai cho biết: Tai nạn sặc cháo, sữa thường xảy ra khi cha mẹ hoặc người trông trẻ cho trẻ ăn không đúng tư thế, do lượng sữa, lượng cháo, bột đưa vào người bé quá nhiều cùng một lúc.

Khi trẻ bị sặc, một lượng thực phẩm lọt vào đường thở (vào khí quản), bít đường thở, điều này khiến tắc đường thở gây khó thở, tím tái hoặc ngạt thở. Nếu không sơ cứu bé kịp thời, bé có thể bị ngạt và dẫn tới tử vong rất nhanh.




Do vậy, khi bé ăn dặm, ăn cháo:

– Không nên ép bé ăn nhiều, không cho bé ăn khi đang nằm

– Không ép trẻ ăn liên tục, nên cho trẻ thời gian nhai kỹ, nuốt hẳn thức ăn trong miệng và chờ thêm một chút trước khi đút muỗng kế tiếp. Tuyệt đối không bóp mũi, ép con phải há miệng để đút thức ăn. Điều này rất dễ khiến trẻ bị sặc.

– Cho dù trẻ ăn được ít hay nhiều, cũng nên dừng bữa ăn sau 30 phút và sau khi ăn, không nên để trẻ nằm ngay.

theo: eva

7 bài thuốc từ lá lốt mẹ nào cũng nên thuộc nằm lòng

Ngoài món chả lá lốt ngon tuyệt cú mèo ra thì lá lốt có rất nhiều công dụng chữa bệnh mà các bạn không biết đâu nhé!

Trẻ bị tiêu chảy nhiều lần

Lá lốt 20g, củ riềng 10g, sắc 2 thứ lấy nước đặc cho trẻ uống 2 – 3 lần liền. Mỗi lần cách nhau 60 phút.

Bàn tay, bàn chân ra nhiều mồ hôi



Lá lốt 1 nắm to, đổ 4 bát nước nấu sôi. Đổ ra chậu cho nguội dần, sau đó ngâm tay, chân trong nước thuốc. Mỗi ngày ngâm 2 lần. Thực hiện liên tục cho tới khi hết các triệu chứng của bệnh.

Viêm đại tràng mạn, đau bụng, sôi bụng, phân sống, rối loạn tiêu hóa

Lá lốt 20g, củ riềng 12g, bạch truật 16g, củ đinh lăng 16g, lá khổ sâm 16g, sơn thù 16g, búp ổi 12g, cam thảo (chích) 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Bị ngộ độc thức ăn

Đau bụng, cuộn trong bụng, đi đại tiện nhiều lần, có trường hợp bị nôn mửa, cơ thể yếu mệt, mất nước, rối loạn điện giải, huyết áp thấp hơn bình thường:lá lốt 20g, bạch truật 16g, hạt sen 16g, hậu phác 12g, sinh khương 8g, sâm bố chính 16g, bạch biển đậu 16g, cây *** lợn (sao vàng) 16g, rau má (sao) 20g, củ riềng 12g, cam thảo (chích) 12g, trần bì (sao) 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Viêm khớp mạn tính, đau nhức trong khớp, đi lại khó khăn, co duỗi hạn chế, đau nhiều khi thời tiết thay đổi



Lá lốt 20g, nam tục đoạn 20g, trinh nữ 20g, ngải diệp 16g, kê huyết đằng 16g, độc lực 20g, tang ký sinh 16g, thủ ô chế 16g, quế chi 6g, thiên niên kiện 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Sâu răng, đau nhức răng

Rễ lá lốt 20 – 30g, ngâm với 60ml rượu trắng. Dùng bông tẩm thuốc, chấm vào chỗ răng đau ngày 2 – 3 lần.

Bé trai bị viêm tinh hoàn

Tinh hoàn sưng to, người mệt mỏi, không chịu chơi, ít vận động, hay nằm: lá lốt 12g, lệ chi 12g, bạch truật 12g, trần bì 10g, bạch linh 10g, sinh khương 21g, sơn thù 6g, phòng sâm 6g, hoàng kỳ 5g, cam thảo (chích) 4g. Đổ 600ml nước, sắc còn 200ml, chia nhiều lần cho trẻ uống trong ngày.



Lỗi dinh dưỡng mẹ hại con “lùn tịt”

Có những thực phẩm tưởng giàu canxi mà hoá ra không phải!

Ngày nay, các bà mẹ vẫn hay truyền nhau câu nỏi “nuôi con chiều dài chứ không ai nuôi con chiều ngang”. Có thể thấy được, vấn đề cải thiện chiều cao cho thế hệ sau đang rất được xã hội quan tâm. Chị em không tiếc tiền mua sữa ngoại, thuốc bổ sung canxi, vitamin D, cho bé ăn nhiều tôm cua hải sản…chỉ để con sau này có chiều cao lý tưởng.

Tuy nhiên, một số bà mẹ dường như đã quá lạm dụng thực phẩm để ‘nhồi nhét’ . Việc nuôi con không theo kiến thức khoa học sẽ chỉ ‘lợi bất cập hại”.

Liên quan đến vấn đề tăng chiều cao cho trẻ, tất cả các bà mẹ đều biết rằng để con phát triển chiều cao, ta cần bổ sung cho bé những thực phẩm giàu canxi. Tuy nhiên, bổ sung như thế nào và liều lượng ra sao không phải bà mẹ nào cũng rõ..



Xin liệt kê ra đây những lỗi “kinh điển” của các bà mẹ Việt bất cẩn chúng ta:

Chỉ ninh xương nấu cháo cho con

Lỗi “khổ lắm nói mãi” này thực ra vẫn rất nhiều bà mẹ Việt mắc phải. Vì muốn con hấp thụ canxi để phát triển chiều cao, nhiều mẹ thường mua xương ống ninh lấy nước nấu cháo cho con ăn hàng ngày.

Trên thực tế, trong xương có nhiều canxi nhưng đều ở dạng vô cơ rất khó hấp thụ. Khi ninh nấu dù tốn bao nhiêu giờ, lượng canxi này vẫn tồn tại trong xương là chính chứ không hòa tan ra nước dùng. Muốn trẻ hấp thụ canxi từ xương, có lẽ mẹ phải cho bé ăn…nguyên khúc.

Vỏ tôm không chứa nhiều canxi như mẹ tưởng

Rất nhiều bà mẹ không tiếc tiền mua hẳn loại tôm sú 400.000 – 500.000 VND một kg để rim hoặc hấp luộc cho con ăn cả vỏ rồi ‘ôm mộng’ cơ thể bé sẽ hấp thụ thêm được nhiều canxi. Tuy nhiên, theo các chuyên gia dinh dưỡng, thực chất vỏ tôm không có chất canxi. Vỏ tôm cấu tạo từ chitin, tương tự như vỏ của con giun đũa, côn trùng. Thực sự nó không có nhiều giá trị dinh dưỡng so với thịt tôm. Ăn nhiều vỏ tôm có thể gây trĩ nhưng ăn ít thì cũng có tác dụng như một loại chất xơ chống táo bón. Nguồn canxi chính của tôm lại chủ yếu ở thịt, chân và càng. Nếu ăn phải vỏ tôm, hệ tiêu hóa của trẻ cũng không hấp thụ được và sẽ bài tiết ra ngoài. Đối với trẻ nhỏ nên bóc vỏ tôm để trẻ không bị hóc hay đau miệng do vỏ dày đâm phải.

Nếu mẹ quá “tiếc” vỏ tôm, có thể xay nhuyễn rồi đun lấy nước ngọt dùng quấy bột, nấu cháo cho trẻ sẽ có tác dụng tăng hương vị, ngọt nước.

Ăn váng sữa thay sữa



Trẻ biếng ăn sữa thì nhiều nhưng hiếm có bé nào lại biếng ăn…váng sữa. Với quan niệm “váng sữa là những gì tinh tuý nhất của sữa”, nhièu mẹ Việt thường cho con ăn vô tội vạ và lạm dụng loại thực phẩm này. Tuy nhiên trên thực tế, để làm ra chỉ 1 kg váng sữa người ta phải cần tới 100kg sữa. Trong khi đó, nhiều loại váng sữa nhập khẩu từ Đức, Pháp… lại có thành phần chủ đạo là “sữa nguyên chất”, “sữa nguyên kem”, hoặc ghi chung chung là sữa. Tên gọi “váng sữa” chỉ là tên Việt hoá của các sản phẩm hiên có trên thị trường. Váng sữa nhiều chất béo và chỉ nên dành cho các bé suy dinh dưỡng, cần tăng cân chứ không có tác dụng thay thế sữa tươi. Cho con ăn váng sữa thay sữa là mẹ đã gián tiếp hạn chế chiều cao trẻ.

Cho trẻ ăn quá nhiều thịt bò

Mẹ biết rằng thịt bò chứa rất nhiều sắt, nhiều protein và rất tốt cho sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, sự thật là, những người hay ăn thịt bò lại là những người thiếu canxi nghiêm trọng. Bởi vì bản thân thịt bò chứa rất ít canxi. Đồng thời, trong thịt bò còn giàu các nguyên tố có tính axit, chủ yếu là phốt pho, lưu huỳnh và clo – nguyên nhân khiến máu có tính axit.  Khi trong máu có axit cơ thể phải dùng canxi trong thực phẩm và canxi trong xương để trung hòa, từ đó tăng sự bốc hơi canxi và giảm hấp thụ canxi trong cơ thể. Cho nên, nếu bé đang thiếu canxi mẹ nên cho bé ăn vừa đủ thịt bò, bổ sung thêm các loại hải sản và thịt trắng khác.

Nấu cải bó xôi cùng với hải sản

Đậu, khoai lang và cải bó xôi là những thực phẩm có chứa rất nhiều axit Phytic.  Axit này sẽ liên kết với canxi trong cơ thể tạo thành muối. Kết quả là canxi chẳng được hấp thụ vào cơ thể bé mà thậm chí vì lý do sức khỏe, cơ thể trẻ sẽ còn “trục xuất” các hợp chất muối mới này dưới hình thức chất thải. Do vậy, nếu mẹ đã mua tôm, cua hay các loại hải sản cho con ăn thì mâm cơm hôm đó của bé nên tránh có đậu, đậu phụ, khoai lang và rau cải bó xôi. Nếu không sẽ chỉ là phí hoài.

Sữa chua hộp và sữa chua nước là như nhau

Hiện nay trên thị trường, ngoài những loại sữa chua lên men từ sữa nguyên chất được đóng hộp dạng dẻo còn có rất nhiều những loại sữa chua dạng nước được gọi với cái tên thông dụng là “sữa uống lên men”. Sữa chua dạng nước có thành phần chủ yếu là sữa bò hoặc bột sữa, đường, axit chua, axit chanh hoặc axit táo, hương liệu, chất bảo quản…  Nhiều phụ huynh tin rằng sữa chua và sữa chua dạng nước đều tốt cho sức khỏe của trẻ và giúp bé phát triển chiều cao.

Tuy nhiên, trên thực tế, giá trị dinh dưỡng của 2 loại sữa chua này hoàn toàn khác biệt. Dinh dưỡng trong sữa chua dạng nước chỉ bằng 1/3 so với sữa chua nguyên chất, do đó, không thể dùng thay thế cho nhau. Nếu muốn con tang chiều cao tốt, mẹ nên ưu tiên cho bé ăn sữa chua hộp.



Cho con uống nhiều nước uống có ga

Bọt khí trong nước uống có ga chứa chất hóa học “ăn mòn” canxi của xương, gây ảnh hưởng đến quá trình phát triển chiều cao của bé. Con bạn có thể bị lùn hơn so với ngưỡng chiều cao mà bé có thể đạt được nếu như mẹ cho bé uống nước có ga quá nhiều.

Các chuyên gia y tế khuyên mẹ nên thay loại đồ uống này. Chẳng hạn mẹ có thể cho bé uống nước chanh, hay cam… đây là loại thức uống rất tốt cho thể chất và tinh thần của bé, lại chứa nhiều vitamin C, D, A –  tốt cho quá trình chuyển hóa, hỗ trợ hấp thu canxi cho cơ thể.

Thực phẩm giúp sinh con thông minh

Các nhà khoa học Hà Lan đã nghiên cứu và chứng minh rằng, phụ nữ ăn socola trong thời gian mang thai sẽ giúp em bé sinh ra hay cười, thông minh và hoạt bát hơn.

Dưới đây là những thực phẩm hàng đầu giúp bé thông minh trong giai đoạn thai kỳ được tham khảo từ website Món ngon mỗi ngày và Y khoa:

1. Táo tàu



Các chuyên gia nghiên cứu và chứng minh rằng táo tàu rất có lợi cho dạ dày, bổ sung khí huyết, nhuận phổi. Thai nhi sẽ phát triển rất thuận lợi nếu các bà bầu khí huyết đầy đủ.

Mặc dù có nhiều tác dụng như vậy nhưng táo tàu lại rất nóng vì vậy không nên ăn quá 3 quả một ngày.

Táo tàu có chứa lượng vitamin C và vitamin E phong phú. Các loại vitamin này giúp cho làn da của phụ nữ mang bầu tươi sáng hơn. Ngoài ra, nó còn giúp chống lại sự hình thành các vết nám.

2. Rong biển, hải sản

Tảo bẹ, rong biển, hải sản rất giàu canxi, iốt, phốt pho, sắt, muối vô cơ và các nguyên tố khác kích thích sự sinh trưởng và phát triển đại não của thai nhi; chống suy nhược thần kinh và tốt cho sức khỏe bà mẹ.

3. Vừng đen

Hạt vừng đen đặc biệt rất giàu canxi, phốt pho, sắt, và 19,7% protein chất lượng cao với gần 10 loại axit amin quan trọng, mà các axit amin là thành phần chính tạo thành các tế bào não.

4. Hạt sen


   
Hạt sen rất giàu canxi, đạm, photpho có tác dụng ích tâm, bổ thận, kiện tỳ, cố tinh, an thần có công dụng dưỡng tâm, ích trí. Với những lợi ích này, bà bầu đừng nên bỏ qua hạt sen vì chúng rất tốt cho sự phát triển thần kinh và trí não thai nhi.

5. Chocolate

Theo các chuyên gia, chocolate có tác dụng cải thiện tâm trạng mẹ bầu cũng như thai nhi, vậy có lý do gì để chúng ta không ăn chocolate phải không? Tuy nhiên, bạn nên ăn ở mức độ vừa phải thôi nhé.

6. Táo

Táo không chỉ giàu kẽm và các nguyên tố vi lượng, mà còn giàu chất béo, carbohydrate, các vitamin và chất dinh dưỡng khác, đặc biệt là chất xơ phong phú có lợi cho các cạnh của vỏ não bào thai phát triển, tốt cho bộ nhớ của bé sau này.

Phụ nữ mang thai nên ăn 1-2 quả táo mỗi ngày để bổ sung kẽm. Bên cạnh việc bổ sung táo làm, bà bầu cũng cần ăn thêm hạt hướng dương, nấm, hành tây, chuối, bắp cải và các loại hạt cũng giàu kẽm.

7. Trứng

Ăn trứng trong thời gian mang thai có thể cải thiện được trí nhớ của bé và giúp chống ung thư vú cho người mẹ. Dưỡng chất choline được tìm thấy trong trứng giúp não trẻ sơ sinh phát triển mạnh mẽ. Trứng là nguồn thực phẩm dồi dào protein và sắt tuy nhiên, theo khuyến cáo mẹ bầu nên ăn trứng đã được nấu chín và chỉ nên ăn 3-4 quả/tuần.



8. Nhân hồ đào

Nhân hồ đào có lợi cho gan và thận, bổ sung khí huyết, nhuận phổi. Phụ nữ mang bầu thường xuyên ăn nhân hồ đào, em bé khi sinh ra không những thông minh mà tóc sẽ đẹp hơn. Tuy nhiên không nên ăn quá nhiều bởi nhân hồ đào có chứa nhiều chất béo. Nhân hồ đào đặc biệt rất thích hợp cho những bà bầu thường xuyên bị chứng táo bón.

9. Lạc

Các bác sỹ về đông y cho rằng lạc có nhiều tác dụng như nhuận phổi, chống ho, tốt cho dạ dày. Tuy nhiên mỗi ngày không nên ăn quá 10 hạt bởi ăn nhiều sẽ rất dễ gây chứng trướng bụng.

Nếu phụ nữ mang thai kiên trì ăn trong một thời gian dài chắc chắn em bé sinh ra sẽ rất thông minh. Ngoài ra, việc ăn lạc thường xuyên còn giúp cho lượng sữa của các bà mẹ được tiết ra đều đặn.

10. Thực phẩm thuộc họ đậu

Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, rau củ quả thuộc họ đậu làm tăng khả năng kích thích sự phát triển trí thông minh của thai nhi. Các loại quả, hạt thuộc họ đậu có chứa axit béo chưa bão hòa, canxi và vitamin B giúp cho sự phát triển của bộ não được thăng bằng và ổn định.

Chính vì thế, các chuyên gia khuyên phụ nữ có thai nên bổ sung thêm nhiều loại thực phẩm thuộc họ đậu như đậu nành, hay dầu đậu nành.

11. Cá

Sử dụng dầu cá thường xuyên trong 3 tháng cuối thai kỳ giúp thúc đẩy sự phát triển não bộ của bé. Thời gian này rất quan trọng cho sự phát triển của mắt và não bộ vì vậy mẹ bầu đừng bỏ qua những loại dầu cá có lợi như dầu cá hồi, cá ngừ tươi, cá trích, cá thu và cá mòi. Bạn cũng có thể thay đổi thực đơn với 1-2 bữa ăn với cá mỗi tuần, tuy nhiên cần lưu ý không nên ăn quá nhiều vì trong một số loại cá có chứa thành phần thủy ngân. Cá còn dồi dào omega-3 – rất có lợi cho sự phát triển trí não của trẻ.

12. Nghệ tây

Tiêu thụ hỗn hợp sữa và nghệ tây trong thời kỳ mang thai sẽ làm giảm bớt đau bụng thận và đau dạ dày cũng như giúp các em bé có xương chắc khỏe và trở nên thông minh hơn.

13. Hạt óc chó



Hạt óc chó giàu chất dinh dưỡng, trong đó chất béo chiếm 63% – 65%, protein chiếm 15% – 20%, đường chiếm khoảng 10%. Với 500 gram quả óc chó tương đương với 2,5 kg trứng gà, hay 4,5kg sữa tươi.

Đặc biệt canxi, phốt pho, sắt và vitamin B1, vitamin B2 cũng khá cao, rất tốt cho các tế bào thần kinh lớn.

14. Mộc nhĩ

Mộc nhĩ rất giàu chất sắt và các loại dinh dưỡng khác, ăn mộc nhĩ giúp máu lưu thông tốt từ mẹ sang bào thai, giúp bé phát triển khỏe mạnh.

Bên cạnh việc ăn thường xuyên những loại thức ăn cho bà bầu để bé thông minh, bà bầu cũng cần bổ sung đủ những loại vitamin cần thiết cho phụ nữ mang thai như axit folic, sắt, vitamin A, vitamin B, canxi… để thai nhi phát triển tốt nhất.